Sự biến đổi lãnh thổ Xứ_Oregon

Xứ Oregon lúc đầu bị Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Pháp, Nga, và Tây Ban Nha tuyên bố chủ quyền. Hoa Kỳ dựa vào sự khám phá ra Sông Columbia của Robert Gray vào năm 1792 và Cuộc thám hiểm của Lewis và Clark để tuyên bố chủ quyền. Vương quốc Anh dựa vào các cuộc thám hiểm trên Sông Columbia của người Anh để tuyên bố chủ quyền. Tuyên bố chủ quyền của Tây Ban Nha thì dựa vào sự thật là họ đã khám phá ra duyên hải Thái Bình Dương vào cuối thế kỷ 18. Tuyên bố chủ quyền của Nga thì dựa vào các khu định cư của họ trải dài từ Alaska tới Oregon. Pháp và Tây Ban Nha đã phân chia vùng tranh chấp phía tây trong thế kỷ 18 dọc theo vĩ tuyến 42 độ. Việc pháp thất trận vào cuối Chiến tranh Bảy năm đã chính thức kết thúc tuyên bố chủ quyền của họ đối với vùng đất này. Tây Ban Nha từ bỏ tuyến bố chủ quyền của họ từng bước một tại hội nghị năm 1790 và từ bỏ luôn tuyên bố chủ quyền những phần lãnh thổ còn lại ở phía bắc vĩ tuyến 42 cho Hoa Kỳ như là một phần trong Hiệp ước Adams-Onís năm 1819. Nga từ bỏ tuyên bố chủ quyền trong các hiệp ước riêng biệt với Hoa Kỳ năm 1824 và với Vương quốc Anh năm 1825.

Trong khi đó, Hoa Kỳ và Vương quốc Anh thương thuyết với nhau tại Hội nghị Anglo-Mỹ năm 1818 mở rộng ranh giới giữa các lãnh thổ của họ ở phía tây dọc theo vĩ tuyến 49 độ bắc đến Dãy núi Rocky. Hai quốc gia đồng ý "cùng chiếm đóng" vùng đất phía tây Dãy núi Rocky đến Thái Bình Dương.

Đầu thập niên 1840, một số người Oregon đã tuyên bố là đã thiết lập một cộng hòa lâm thời với một ban hành pháp 3 người và một hành chánh trưởng. Một số phần tử chính trị gia Oregon hy vọng tiếp tục biến đổi chính trị của Oregon thành một quốc gia độc lập, nhưng áp lực gia nhập Hoa Kỳ cuối cùng thắng thế vào năm 1848.[1]